Quốc hiệu CHXHCHVN

Việt Nam đã có gần 40 tên gọi, khởi đầu từ các quốc hiệu Xích Quỷ, Văn Lang, lâu nhất là Đại Việt và cuối cùng là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà Thanh công nhận "Việt Nam" (chữ Hán: 越南) là quốc hiệu Nhà Nguyễn.[12] Chữ "Việt" 越 đặt ở đầu biểu thị đất Việt Thường, cương vực cũ của nước này. Chữ "Nam" 南 đặt ở cuối thể hiện đất An Nam, là cương vực sau này. Đặt quốc hiệu là "Việt Nam" 越南 không nhầm với nước Nam Việt và thể hiện vị trí địa lý nằm ở phía nam Bách Việt. Năm 1804, vua Thanh cho án sát sứ Quảng Tây Tề Bố Sâm sang tuyên phong Gia Long làm "Việt Nam quốc vương" 越南國王 mặc dù các vua Nhà Nguyễn vẫn theo lệ cũ tự phong "Hoàng đế" 皇帝 cho ngang hàng với vua Trung Quốc.[12][13]

Quốc hiệu "Việt Nam" được sử dụng lần đầu dưới thời vua Gia Long từ năm 1804.[14] Tên gọi này sau đó xuất hiện trong tác phẩm Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu năm 1905, và sau đó được sử dụng bởi Việt Nam Quốc dân Đảng.[15] Thời Pháp thuộc, đất nước thường gọi là "An Nam", cho đến khi Đế quốc Việt Nam được thành lập trong Thế chiến thứ hai mới chính thức đặt quốc hiệu là "Việt Nam".[16]

Không có sự thống nhất về cách viết tên gọi quốc gia này trong tiếng Anh. Trong khi các nước khác có xu hướng viết là Vietnam cho danh từ, và Vietnamese cho tính từ, thì tại ngay chính Việt Nam vẫn tồn tại các cách viết khác nhau. Điều này có thể nhận thấy trên website của Chính phủ Việt NamBộ Ngoại giao Việt Nam (phiên bản tiếng Anh) dùng cả ba cách: Vietnam, hoặc Viet Nam, hoặc thậm chí Việt Nam.[17][18] Danh sách liệt kê thành viên trên website Liên Hiệp Quốc viết tên quốc gia này là Viet Nam, trong khi các bài viết tiểu mục đôi khi vẫn viết Vietnam.